Ví dụ, trong một hiệp ước chính trị, nhà triết học người Hà Lan Spinoza gần như cho rằng chế độ dân chủ là một hình thức chính phủ nguyên thuỷ hơn chế độ quân chủ. Dù thế nào, họ cũng buộc phải chấp nhận giải pháp mà người khác đưa ra cho vấn đề của họ. Họ vừa truyền kiến thức, vừa nhấn mạnh đến việc áp dụng kiến thức vào thực tế.
Đây chính là điều mà ta thường gọi là có công mài sắt có ngày nên kim. Tuy nhiên, một tác giả phân biệt rõ ràng các nghĩa khác nhau của từ mà mình sử dụng thì chắc chắn tác giả đó đang đưa ra các thuật ngữ. Vấn đề thứ hai là sử dụng từ đồng nghĩa.
Giai đoạn thứ ba, trẻ tiến bộ nhanh chóng trong việc phát triển từ vựng và nâng cao kỹ năng phát hiện nghĩa của những từ mới thông qua các gợi ý trong ngữ cảnh. Cũng như vậy, các tiêu chuẩn đạo đức thuyết phục người đọc tin vào sự tồn tại của một cuộc sống tốt đẹp và đưa ra các cách để có được cuộc sống đó. Tuy nhiên, một giả thiết phổ biến, thậm chí là một giả thiết mang tính triết học cũng còn nhiều hạn chế.
Thứ hai, cho đến cuối thế kỷ XIX, những cuốn sách khoa học lớn đều chỉ dành cho những độc giả không chuyên. Từ đó chỉ ra những suy nghĩ, hành động con người phải thực hiện để có được hạnh phúc, hoặc tránh sự bất hạnh. Trong khi đó, các tác phẩm mô tả không cung cấp cho ta kinh nghiệm mới, mà chỉ nhận xét kinh nghiệm mà ta đã có hoặc có thể có.
Nếu câu hỏi mang tính lịch sử, bạn biết bạn cũng phải tiến hành nghiên cứu dù theo một cách khác. Có thể vì bạn không hiểu cách tác giả sử dụng một số từ cụ thể nên sẽ không hiểu đầy đủ cả một đoạn. Đây là cách đọc những cuốn sách thách thức khả năng hiểu rõ vấn đề của bạn.
Tất nhiên, cuốn Symtopicon cũng có hạn chế. Nếu kiến thức thật sự, không phải ý kiến cá nhân, bị đe doạ, thì thường xảy ra hai trường hợp sau: hoặc bất đồng có thể dễ dàng xoá bỏ thông qua sự thống nhất về cách dùng từ và gặp gỡ về tư tưởng; hoặc bất đồng thật sự nghiêm trọng và vấn đề chỉ được giải quyết dựa trên thực tiễn và lý lẽ. Trước khi tiếp tục các phần tiếp theo, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng những quy tắc trong quá trình đọc phân tích không miêu tả một quy trình hoàn hảo.
Được mở mang tầm hiểu biết là biết thêm bản chất vấn đề: tại sao đúng, tại sao sai, những mối quan hệ của vấn đề với các dữ liệu khác,… Nếu độc giả nào không nhận thấy sự chuyển đổi này thì rất khó có thể giao tiếp hay làm việc. Nói cách khác, ông đã dựa trên ngôn ngữ đời thường để truyền đạt ý tưởng của mình tới độc giả.
Nếu sự hứng thú của bạn đối với cuốn sách mang tính thực tế, bạn sẽ muốn giải quyết vấn đề về phương pháp học đọc. Nếu bạn đọc tác phẩm của tác giả trước, có thể bạn sẽ hiểu được tác phẩm viết sau. Khi đó, bạn sẽ làm gì?
Chúng tôi sẽ quay lại loại ghi chú này ở Chương 20. Điều quan trọng cần lưu ý là 15 quy tắc đọc hiểu được nêu trong phần cuối của Chương 11 không thể áp dụng cho việc đọc các tác phẩm giả tưởng và thơ ca. Nếu bạn đã biết hoặc nghi ngờ mình sai thì dù có giành phần thắng trong cuộc tranh luận cũng chẳng ý nghĩa gì.
Hành động ở đây không hẳn mang nghĩa đi đâu hoặc làm gì. Điều đó có nghĩa là đọc càng tích cực càng tốt, và bạn phải nỗ lực - sự nỗ lực mà bạn hy vọng sẽ được đền đáp lại. Có mối quan hệ chặt chẽ với quy tắc 6 là quy tắc 7.